Thể Loại | Văn học – Tiểu thuyết |
Tác Giả | Haruki Murakami |
NXB | NXB Văn Học |
CTy Phát Hành | Nhã Nam |
Số Trang | 448 |
Ngày Xuất Bản | 06 – 2019 |
Xem Giá Bán Trên | FAHASA T I K I SHOPEE |
I. Giới thiệu sách Cuộc Săn Cừu Hoang
Cuộc săn cừu hoang (羊をめぐる冒険 Hitsuji wo Meguru Bōken) là tên tiểu thuyết kỳ bí phát hành năm 1982 của nhà văn người Nhật Murakami Haruki. Đây là cuốn thứ ba nằm trong tuyến truyện về “Chuột cống” và “tôi” của tác giả, nối tiếp Lắng nghe gió hát và Pinball, 1973. Cuộc săn cừu hoang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tác phẩm The Long Goodbye của Raymond Chandler và tựa đề tác phẩm được xem là nhại theo cuốn Cuộc phiêu lưu mạo hiểm của Natsuko (夏子の冒険 Natsuko no Bōken) của nhà văn Mishima Yukio.
Nhật Bản những năm 80 của thế kỷ trước, một nhân vật chính không tên, ly dị vợ, công việc nhiều tiền nhưng nhàm chán, thông minh nhưng đời lại chẳng có gì kích thích hắn nghĩ suy – Cuộc săn cừu hoang rõ ràng được đặt trên nền một thực tế quen thuộc của thời hiện đại. Một không khí hững hờ và uể oải theo người đọc vào cả một thế giới hoang đường, và không rời bỏ ngay cả khi câu chuyện diễn tiến đến những tình tiết gay cấn nhất của cuộc săn săn cừu hoang kỳ lạ, hay những đoản khúc gợi cảm u sầu với cô gái có đôi tai đẹp khác thường. Murakami đã hư cấu ngay trên nền thế giới thực và tạo nên một tiểu thuyết như mơ. Có lẽ tiểu thuyết nên được đọc theo cách ấy: như mơ một giấc thật sâu, đến mức dẫu phần lý trí trong ta vẫn biết là nó không có thật, nhưng khi tỉnh lại và tiếp tục sống đời mình, đâu đó trong tim ta vẫn vương vấn khôn nguôi.
Năm 2011, Cuộc săn cừu hoang được chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi Minh Hạnh dựa trên bản tiếng Anh của Alfred Birnbaum xuất bản bởi Vintage và xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Văn học.
Tóm tắt nội dung Cuộc Săn Cừu Hoang
Năm 1978, nhân vật chính li dị vợ sau 4 năm chung sống. Không lâu sau, anh có bạn gái mới, một người có đôi tai đẹp kỳ lạ và cũng là người đã tiên tri về “cuộc săn cừu hoang” của anh.
“Cừu hoang” ở đây là con cừu có vết bớt hình ngôi sao xuất hiện trong tấm hình mà “Chuột” gửi anh trong bức thư liên lạc gửi từ Hokkaido. Tấm hình này sau đó được nhân vật chính sử dụng để P.R. cho một công ty bảo hiểm và từ đó, Ông Chủ biết chuyện. Ông sai viên thư ký đắc lực của mình đến đe doạ, buộc anh phải gỡ tấm hình kia xuống, đồng thời cung ứng kinh phí để anh tìm cho bằng được con cừu này. Và vì thế, anh nghỉ việc ở công ty, cùng với bạn gái mình khăn gói đến Hokkaido, tìm hiểu tất cả những gì có thể biết về cừu tại Nhật Bản. Trong quá trình lưu lại khách sạn Cá Heo ở Sapporo, nhân vật chính cho đăng tin liên lạc trên một tờ báo địa phương, gọi Chuột đến gặp anh ở khách sạn. Chuột không bao giờ liên lạc lại với anh nhưng tình cờ, ông chủ khách sạn đã tiết lộ rằng cha mình thực chất rất am hiểu về lĩnh vực mà hai người muốn tìm hiểu bởi vì ông được gọi là Giáo sư Cừu. Hai người được đưa đi gặp Giáo sư Cừu và vị giáo sư già, chịu chung một nỗi khổ “không cừu” với Ông Chủ kể từ khi con cừu ma thuật rời bỏ thân xác ông, đã kể tường tận về cuộc đời khốn khổ của mình. Ông hy vọng hai con người trẻ tuổi sẽ tìm ra con cừu mà hơn 40 năm nay ông đã tìm kiếm.
Hai người sau đó đến Junitaki và được một người dắt đến biệt thự trên núi của ông chủ mới vùng này. Qua lời kể của ông, nhân vật chính đã xác nhận được rằng ông chủ mới không ai khác chính là Chuột. Anh quyết tâm đi đến căn biệt thự đó để tìm bạn mình hỏi cho ra lẽ. Tuy nhiên, khi đến nơi, “Chuột” không có ở đó. Và sau khi thức dậy từ một trận ốm, anh nhận ra cô bạn gái đã bỏ anh lại một mình trong khi chờ Chuột quay lại. Anh không phải ở một mình lâu vì sau đó một nhân vật mới xuất hiện, đó là Người Cừu. Kể từ khi Người Cừu xuất hiện, anh linh tính rằng người này có dính líu đến chuyện bạn gái anh bỏ đi và biết về cậu bạn Chuột. Nhưng anh không có thêm được thông tin nào từ nhân vật này vì ông từ chối trả lời. Anh bèn nhờ Người Cừu chuyển lời đến “Chuột” hộ anh.
Bỗng một hôm, anh nhìn lên tủ sách của biệt thự và cầm lên cuốn sách chủ đề Á Châu chủ nghĩa có vẻ mới được giở ra gần đây. Anh nhìn ra phần phụ lục và bất ngờ tìm ra thông tin về Ông Chủ khiến anh choáng váng. Anh tự chủ động đi tìm gặp Người Cừu, chơi ghi-ta cho ông ta nhưng sau đó đập vỡ cây đàn thể hiện sự tức giận của mình. Vài ngày sau, Chuột đến tìm gặp anh và lúc này truyện được hé lộ rằng nhân vật chính đã biết cậu bạn Chuột thực chất đã chết; người đến gặp cậu đây chỉ là linh hồn và rằng Người Cừu cũng chỉ là một hoá thân của Chuột. Chuột chết để giết chết con cừu ma quái ngự trị thân xác cậu ta.
Sau khi trùng phùng với bạn, nhân vật chính trở về gặp Giáo sư Cừu để thông báo về cái chết của con cừu hoang, gửi lời của Chuột đến J và bắt đầu cuộc sống mới.
Đôi nét về tiểu thuyết gia Murakami Haruki
Murakami Haruki (村上 春樹 (Thôn Thượng Xuân Thụ)sinh ngày 12 tháng 1 năm 1949) là một trong những tiểu thuyết gia, dịch giả văn học người Nhật Bản được biết đến nhiều nhất hiện nay cả trong lẫn ngoài nước Nhật. Từ thời điểm nhận giải thưởng Nhà văn mới Gunzo năm 1979 đến nay, hơn một phần tư thế kỷ hoạt động và viết lách, tác phẩm của ông đã được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng trên thế giới, đồng thời trong nước ông là người luôn tồn tại ở tiền cảnh sân khấu văn học Nhật Bản. Murakami đã trở thành hiện tượng trong văn học Nhật Bản đương đại với những mĩ danh “nhà văn được yêu thích”, “nhà văn bán chạy nhất”, “nhà văn của giới trẻ”.
Từ nhỏ, Murakami đã chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa phương Tây, đặc biệt là âm nhạc và văn học. Ông lớn lên cùng với hàng loạt tác phẩm của các nhà văn Mỹ như Kurt Vonnegut và Richard Brautigan, và sự ảnh hưởng của phương Tây chính là đặc điểm giúp mọi người phân biệt ông với những nhà văn Nhật khác. Văn học Nhật thường chú trọng đến vẻ đẹp ngôn từ, do đó có thể khiến cho khả năng diễn đạt bị giới hạn và trở nên cứng nhắc, trong khi phong cách của Murakami tương đối thoáng đạt và uyển chuyển.
Murakami học về nghệ thuật sân khấu tại Đại học Waseda, Tokyo. Ở đó, ông đã gặp được Yoko, người sau này là vợ ông. Ban đầu ông làm việc trong một cửa hàng băng đĩa, nơi mà một trong những nhân vật chính của ông trong tác phẩm Rừng Na Uy, Watanabe Toru, đã làm việc. Một thời gian ngắn trước khi hoàn thành việc học, Murakami mở một tiệm cà phê chơi nhạc jazz có tên “Peter Cat” tại Kokubunji, Tokyo, ông quản lý nó từ năm 1974 đến 1982. Nhiều tiểu thuyết của ông lấy bối cảnh âm nhạc và nhan đề đề cũng nói đến một bản nhạc nào đó, gồm có Dance, Dance, Dance (của ban nhạc The Steve Miller), Rừng Na Uy của The Beatles)’ và Phía nam biên giới, phía tây mặt trời (ghép từ nhan đề một bài hát South of the Border và mượn ý lại của một bài hát khác East of the Sun).
II. Review sách Cuộc Săn Cừu Hoang
LINK GIẢM GIÁ → | FAHASA T I K I SHOPEE |
Dưới đây là tổng hợp Review sách Cuộc Săn Cừu Hoang của nhà văn Haruki Murakami. Giúp bạn có cái nhìn tổng quan nhất về cuốn sách mà không cần mất thời gian tìm kiếm.
Hãy truy cập Những Cuốn Sách Hay thường xuyên hoặc lưu lại để tiện theo dõi & cập nhật thông tin mới nhất nhé!
1. KHANH review sách Cuộc Săn Cừu Hoang
Đọc xong mới phát hiện ra là mình chẳng biết tên nhân vật chính là gì, có phải là mình bỏ qua mất hay là anh ấy không được nhắc tên đến một lần trong truyện, hoặc là do trong câu chuyện này thì tên tuổi cũng chẳng còn là quan trọng nữa?
Bắt đầu từ việc nhân vật chính kể về một người đã từng quen giờ đã chết và sự não nề của anh ta khi nói về người vợ cũ của mình, mình không nghĩ là không ai có thể đoán được rằng mạch truyện sẽ tiếp tục theo một chiều hướng ngày càng trippy. Bằng một cách nào đấy, vừa tài tình vừa tinh tế, Murakami đã lái được câu chuyện từ một tình huống đời thường (hay nên nói là tầm thường?) sang hẳn một vũ trụ khác chứ không chỉ là sang một thế giới khác nữa, vừa đọc vừa cảm tưởng như đang được xem giấc mơ nét 1080HD của ai đấy. Có điều mình cực thích là việc nhìn thấy được từ tình tiết nào trở đi tất cả mọi thứ sẽ thay đổi hoàn toàn, như kiểu nghe được thấy một tiếng click và bạn biết là cánh cửa mới vừa được mở ra vậy. Đây là quyển đầu tiên của Murakami mà mình đọc bằng tiếng Việt, công nhận là sách được dịch rất hay, văn đọc cực xuôi và êm, phải nói là hay hơn cả mong đợi.
Mình bắt đầu đọc “Cuộc săn cừu hoang” trong một state of mind khá tệ, homesick nặng nề và burnout tưởng sắp đình công. Thế nên mình quyết định đọc một quyển của Murakami để thấy được bất kì ai đấy (tất nhiên là nhân vật chính) trải qua cái sự cô độc và bất lực mà mình đang không thể nào thoát ra khỏi. Và đương nhiên là không thể nào có chuyện sách của Murakami lại làm mình thất vọng cả. Chẳng khác gì những quyển khác của Murakami mà mình đã đọc, bao trùm lên không khí xuyên suốt cuốn sách vẫn là sự cô đơn và chán nản hoặc của nhân vật chính hoặc của những người xung quanh nhân vật chính. Hình như ai cũng đang đi mà không có mục đích và ai cũng đã chết trong lòng một ít, nhiều khi mình nghĩ mình thích đọc Murakami đến thế bởi vì chẳng có một ai khác tạo được nên những nhân vật mình có thể nhìn vào mà thấy chính mình đến thế. Dù sao đi nữa thì cú xoay 180 độ từ những thứ tẻ nhạt ngày thường của nhân vật chính sang cuộc phiêu lưu hờ hững mà phi thực đấy cũng đã điểm thêm một màu sắc tươi sáng cho quyển sách và cũng đã xốc tinh thần mình lên ít nhiều.
2. MA CHI review sách Cuộc Săn Cừu Hoang
Mơ hồ chắc là những gì tui trải qua với “Cuộc săn cừu hoang” thậm chí ngẫm lại khi đã hoàn thành quyển sách vẫn không vơi đi phần nào.
Cuốn đầu tiên mình đọc của bác với cuốn này đều có chung 1 mô-típ: Một nhân vật không tên, li dị với vợ, nuôi mèo, có bồ mới rồi bắt đầu một chuyến phiêu lưu kì diệu nào đó mà chẳng biết là thật hay nói vui vui xíu là đang “chơi đồ” 😶nữa và một phần kết vẫn quá nhiều thứ mù mờ.
Nói thế chứ hỏi thích bác viết kiểu này không? thì thích chứ. Thích bác đưa tui vào cái thế giới nữa giả nữa thật ấy, thích bác châm biến cái xã hội hay kinh tế của Nhật thời đó hay là thích cái cách bác bỏ lửng mấy câu hỏi để cho ta tự có câu trả lời cho riêng mình và cái cảm giác cô đơn bác khắc họa cho TÔI nữa
3. NGUYỄN HƯƠNG review sách Cuộc Săn Cừu Hoang
Một góc nhìn mới về văn phong Haruki Murakami.
Tác phẩm đầu tiên của Haruki Murakami mà tôi đọc là “Rừng Nauy”. Và tưởng chừng sau câu chuyện ấy,tôi hết muốn đọc văn của tác giả này. Nhưng trong những ngày tháng cô độc, tách biệt, trầm lặng thì tôi lại tìm đến văn chương của Murakami như một lẽ dĩ nhiên: đọc lại Rừng Nauy, sau đó là đọc “Cuộc săn cừu hoang” này.
Kết quả thu lại: thật tuyệt. Vẫn có những người trẻ không có mục tiêu, lý tưởng nhưng cốt truyện thật khác lạ khiến tôi không thể nào liên tưởng đến người này cũng viết “Rừng Nauy”. Lạ ở chỗ nào ư? Nó như một giấc mơ vậy, kì lạ,siêu thực, trong giấc mơ đó sẽ có một chú bò sữa mang một chiếc quạt điện cũ trên móng guốc, mong muốn đổi quạt lấy cái kìm, vậy đấy.
Tôi đọc cuốn sách cả một buổi chiều, kéo dài đến tối sau đó dừng lại ở”Những điều gương phản chiếu,những điều không’. Tôi sợ phải đối mặt với cái kết,khi mọi chuyện đã ngã ngũ,sợ chơi vơi,sợ không còn gì để đọc.
Nên tôi để cuốn sách lại cho buổi sáng ngày hôm sau.
Thực,đoạn đầu đọc mọi chi tiết khá vụn vặt. Câu chuyện đi từ con-nhỏ-ngày-xưa-sẵn-sàng-lên-giường-với-bất-cứ-thằng-nào đến người vợ cũ,tay đối tác của nhân vật chính. Tôi khá buồn ngủ vì chúng, và trong lúc đọc,tôi đã bỏ sách xuống và…ngủ một giấc thật.
Nhưng khi biết mình đang đọc cái gì: một tác phẩm hoang đường siêu thực, tôi không còn cố ép nó vào với thực tế mà hoang đường cùng câu chuyện.
Người Cừu. Cứ cho là thế đi.
Cừu nhập. Cứ cho là thế đi.
Lúc ấy,tôi mới thấm lời đề bạt nơi cuốn sách:” có lẽ tiểu thuyết nên được đọc theo cách ấy:như mơ một giấc thật sâu, đến mức dẫu phần lý trí trong ta vẫn biết là nó không có thật, nhưng khi tỉnh lại và tiếp tục sống đời mình, đâu đó trong tim ta vẫn khôn nguôi vương vấn”.
4. T R A N review sách Cuộc Săn Cừu Hoang
“Cuộc săn cừu hoang” là một tiểu thuyết thú vị của tác giả Haruki Murakami. Cứ ngỡ chỉ có cừu hoang xuất hiện trong câu chuyện này nhưng không, nào là rắn, chuột, gấu trúc, mèo, hươu cao cổ, chó, dê, chim gõ kiến, bồ câu, cá trích, tôm, cá heo, cá voi, cá ngừ, châu chấu, nai,… đều xuất hiện. Nhân vật chính là một người cô độc và lạc lõng vì anh ta chẳng có một người bạn hay một người hàng xóm thân quen nào để tâm sự. Anh ta sống trong một căn hộ tịch mịch và mang lại cảm giác không mấy vui vẻ. Tác giả cũng chẳng buồn đặt cho anh ta một cái tên, đây cũng là điều hiếm thấy về việc một tác giả không trân trọng lắm về nhân vật chính trong truyện của mình. Đến một ngày sau 30 năm tẻ nhạt và vô vị, anh ta cũng đã có “bước chuyển mình” khi nhận được một lời hăm dọa cho việc tìm kiếm một con cừu có màu hạt dẻ và hình ngôi sao trên lưng. Manh mối có được chỉ là một bức ảnh vô thưởng vô phạt từ một người bạn đã 5 năm không gặp. Thế là anh ta đi tìm con cừu chỉ bằng bức ảnh đó cùng với cô bạn gái có đôi tai đẹp khác thường. Cuộc săn cừu hoang mở đầu như thế mà theo tôi là khá kỳ lạ và có chút làm cho người đọc tò mò.
“Cuộc săn cừu hoang” như trở thành cuốn mở đầu cho phong cách viết văn chuyên nghiệp của Haruki Murakami. Hình ảnh con cừu hoang được xây dựng trong tác phẩm này cũng thực sự thú vị. Cốt truyện cũng tương đối là logic, đôi khi cảm giác như tác giả đã rất cố gắng trong việc xây dựng các tình huống truyện thông qua ngòi bút cẩn trọng và tỉ mỉ. Nhưng cũng có lúc, những dòng văn ấy lại hơi bị lỗi nhịp và cao hứng quá đáng.
Tôi thực sự hơi bị đắm chìm và mơ hồ vào kịch bản có sẵn mà tác giả dựng ra cho cuộc hành trình săn cừu đó cho nhân vật. Mọi thứ đều suôn sẻ nhưng thực ra vẫn có chút mơ hồ mà người đọc phải tự cảm nhận qua tâm hồn. Nếu chỉ đọc sơ sơ thì sẽ khó lòng hiểu được hết các ẩn ý đó. Tôi sẽ không nói rõ các tình tiết trong truyện vì hy vọng mọi người sẽ cùng đắm chìm vào cảm giác mơ hồ tương tự của tôi. Thực ra, tôi nghĩ đây không phải là tác phẩm xuất sắc nhất của tác giả Haruki Murakami nhưng vẫn rất đáng để đọc. Chính những cảm xúc vừa thực vừa mơ mà “Cuộc săn cừu hoang” đem lại mới chính là ý tứ mà tác giả gửi gắm. Cũng chính như cuộc đời của nhân vật trong truyện, đáng lẽ tầm thường đến vô vị nhưng chỉ vì một sự kiện ấy mà thay đổi hoàn toàn, tưởng như một giấc mộng kỳ lạ.
III. Trích dẫn sách Cuộc Săn Cừu Hoang
LINK GIẢM GIÁ → | FAHASA T I K I SHOPEE |
Trích dẫn hay trong Cuộc Săn Cừu Hoang của Haruki Murakami
- “Tế bào cơ thể tự thay thế mỗi tháng. Ngay cả chính lúc này đây, hầu hết mọi thứ anh nghĩ anh biết về em chỉ là kỷ niệm”
- “Một thứ gì đó đã bị lãng quên. Một thứ gì đó biến mất, một thứ gì đó chết đi. Nhưng rốt cuộc thì người ta khó có thể gọi cái thứ ấy là tấn thảm kịch”
- “Không bao giờ kể hết chuyện về cuộc đời một ai đó, cho dù nó có vẻ tẻ nhạt đến mức nào”
- “Hầu hết mọi người cố thoát ra khỏi sự nhàm chán, nhưng anh ta lại cố rút vào sâu bên trong cái sự nhàm chán ấy”
- “Thời gian thật sự là một tấm vải lớn dài vô tận, phải không? Chúng ta quen cắt từng mảnh thời gian để vừa với mình, vì thế chúng ta thường tự đánh lừa mình rằng thời gian vừa khớp với mình, nhưng thật ra nó kéo dài mãi mãi”
- “Mỗi một người đàn bà đều có một ngăn kéo đánh dấu “đẹp”, chất đủ loại đồ tạp nhạp vô nghĩa”
- “Những gì kết thúc với người này lại không phải đã chấm hết với người kia. Đơn giản vậy đấy. Sau đó, con đường lại rẽ làm hai nhánh khác nhau”
- “Năm tháng đương nhiên đã chẳng khiến tôi khôn ngoan hơn. Tính cách có thể thay đổi nhưng sự tầm thường thì không…”
- ““Thế giới” – cái từ luôn khiến tôi liên tưởng đến một con rùa và những con voi đang đỡ một cái đĩa khổng lồ mà không hề biết mệt. Những con voi không hề biết đến vai trò của con rùa, và con rùa không thể trông thấy những con voi đang làm gì. Và cả voi lẫn rùa đều không hề nhận thức được cái thế giới trên lưng chúng”
- “Người ta chăm chăm đợi một ai đó và sau một khoảng thời gian thì chuyện diễn ra cũng như không quan trọng nữa. Có thể là năm năm hay mười năm hay một tháng. Cũng giống nhau cả thôi”
- “Con người ta nói chung có thể chia làm hai loại: Những kẻ thực tế tầm thường và những kẻ mơ mộng tầm thường. Cậu rõ ràng thuộc loại thứ hai. Số phận của cậu đang và sẽ là số phận của một kẻ mơ mộng”
- “Con người chắc chắn phải có một trung điểm giữa khát vọng và lòng tự hào. Giống như tất cả sự vật đều phải có trung tâm của trọng lực…Chỉ khi điều đó mất đi người ta mới nhận ra nó tồn tại”
- “Cô đơn không phải là một cảm giác xấu. Nó giống như sự tĩnh lặng của cây sồi đỏ sau khi những con chim bé bỏng bay đi”
- “Không có gì tồi tệ hơn là thức dậy trong bóng tối hoàn toàn. Giống như phải quay lại sống từ đầu. Khi tôi mới mở mắt ra, cứ như thể tôi đang sống cuộc đời của một người khác. Sau một lúc thật lâu, cuộc đời ấy mới bắt đầu khớp với cuộc đời tôi. Thật là một sự chồng chéo kỳ cục, cuộc đời tôi như cuộc đời của một ai đó. Tôi thậm chí còn không chắc là một người như bản thân tôi lại đang tồn tại”
- “Hãy để thời gian mang tôi đi. Mang tôi đến nơi mà một bóng tối mới đang sắp xếp nên những mẫu hình mới hơn nữa”
- “Nhược điểm cũng giống như bệnh di truyền vậy. Cho dù ta có hiểu về nó đến mức nào, ta cũng không thể làm gì để chữa trị cho mình. Nó sẽ không biến mất sau một cái vỗ tay. Nó sẽ chỉ ngày càng tồi tệ hơn… Nhưng nhược điểm thực sự cũng hiếm hoi như thế mạnh thật sự. Cậu không biết đến cái nhược điểm luôn luôn kéo mình vào trong bóng tối. Cậu không biết rằng có một thứ như thế thật sự tồn tại trong thế giới này…”
- “Thỉnh thoảng em vẫn thấy nỗi cô đơn khi ngủ với anh.”
LINK GIẢM GIÁ → | FAHASA T I K I SHOPEE |
Trích đoạn yêu thích trong Cuộc Săn Cừu Hoang
“Ít nhất trong thời điểm hiện tại, anh là người muốn em. Hơn nữa, anh tốt hơn nhiều so với những gì anh nghĩ về mình.”
“Vậy tai sao anh lại cứ nghĩ như vậy?” tôi bối rối.
“Đó là vì anh chỉ sống có một nửa,” cô nói nhanh “Nửa kia vẫn còn ngủ yên đâu đó.”
…
Những ngón tay thon dài của ông ta gợi nhớ đến một đoàn xiếc thú vẫn giữ những ký ức sâu đậm từ thời sơ khai bất chấp bao nhiêu năm tháng luyện tập và kiềm chế. Móng tay của ông ta được chăm chút tỉ mỉ, một hình cung sạch sẽ, hoàn hảo cuối mỗi ngón tay. Đôi bàn tay đẹp thật sự, nhưng không hiểu sao lại tạo cảm giác không yên bình. Chúng chứng tỏ mức độ chuyên môn hóa cao độ trong một lĩnh vực hiếm hoi nào đó – nhưng lĩnh vực đó là gì thì không ai thật sự biết.
…
“Giống như bất cứ loài vật nào đi theo nhóm. Con cừu nào cũng có trật tự phân hạng trong xã hội cừu. Nếu có năm mươi con trong chường thì sẽ có con cự số một cho tới con cừu số năm mươi. Và con nào con nấy đều biết đích xác mình ở đâu.”
“Lạ lùng thật,” cô nói.
“Điều đó cũng khiến việc quản lý chúng dễ dàng hơn cho tôi. Chỉ cần dắt con cừu số một ra. Thế là cả lũ cừu theo sau không thắc mắc gì.”
“Nhưng nếu tất cả chúng đều biết vị trí của mình, tại sao chúng đánh nhau?”
“Chẳng hạn một con cự bị đau và mất đi sức mạnh, vị trí của nó trở nên lung lay. Thế là con cừu dưới nó trở nên hăng máu hơn và cố vươn lên vị trí tốt hơn. Khi điều đó xảy ra, chúng đánh nhau trong ba ngày.”
“Tội nghiệp.”
“Ôi dào, huề cả làng thôi mà. Xét cho cùng, con cừu bị đá đít ấy khi còn trẻ cũng đã đá đít một con cừu khac. Và đến khi lên phản làm thịt không có số một hay số năm muoi. Chỉ là một cuộc liên hoan ngoài trời có cừu nướng quay cả con thôi.”
“Hừ,” cô nói.
“Nhưng con đáng thương thật sự là con cừu đực hạt giống. Cô cậu biết hết về hậu cung lũ cừu, đúng không?”
“Không, tôi không biết,” tôi đáp.
“Khi nuôi cừu, điều quan trọng nhất người nuôi cần chú ý là việc phối giống. Thế là người ta giữ chúng tách biệt, cừu đực với nhau, cừu cái với nhau. Rồi người ta ném một con đực vào chuồng lũ cừu cái. Nói chung thì nó là con đực khỏe nhất. Nói cách khác, người ta phối giống tốt nhất. Sau một tháng, khi mọi việc đã xong, con cừu đực giống này trở về chuồng toàn cừu đực. Nhưng trong thời gian con cừu đực giống bận rộn, những con đực khác đã thiết lập nên một trật tự phân hạng mới. Và do cái việc phối giống đó mà con cừu đực giống giảm cân tới một nửa nên không thắng nổi một trận đánh nhau. Thế là tất cả các con đực khác đánh hội đồng nó. Thế mới buồn.”
“Cừu đánh nhau như thế nào hả bác?”
“Chúng đập đầu nhau. Trán cừu cứng như thép và rỗng không bên trong.”
…
Cô đơn không phải là một cảm giác xấu. Nó giống như sự tĩnh lặng của cây sồi đỏ sau khi những con chim bé bỏng đã bay đi.
Trích đoạn Phần I: khúc dạo đầu – Chương 01: Picnic chiều thứ tư
Đó là mẩu tin chỉ gồm một đoạn ngắn ngủn trên tờ tin tức buổi sáng. Một thằng bạn gọi điện và đọc mẩu tin đó cho tôi. Chẳng có gì đặc biệt cả. Chỉ là một mẩu tin do tay phóng viên non tay mới ra trường tập tọe viết cho quen.
Ngày tháng, tên góc phố, một người lái xe tải, một người đi bộ, một người chết, một cuộc điều tra về khả năng tai nạn xảy ra do bất cẩn.
Nghe giống như một bài thơ in ở tay gấp một cuốn tạp chí.
“Đám tang tổ chức ở đâu?” tôi hỏi.
“Ai biết được,” hắn đáp. “Nó có gia đình không?”
Tất nhiên là nàng có gia đình.
Tôi gọi điện đến đồn cảnh sát để tìm số điện thoại và địa chỉ nhà nàng, rồi tôi gọi điện đến nhà nàng để hỏi thêm chi tiết về đám tang.
Gia đình nàng sống trong một khu phố cổ ở Tokyo. Tôi lấy bản đồ ra đánh dấu dãy phố bằng mực đỏ. Chỗ nào cũng có đường tàu điện ngầm, tàu hỏa, xe buýt, tất cả chồng chéo lên nhau như một tấm mạng nhện méo mó, tạo thành một mê cung chằng chịt những con phố hẹp và rãnh nước thải.
Ngày đưa tang nàng, tôi bắt tàu điện đến Waseda. Gần đến bến cuối, tôi xuống tàu. Tấm bản đồ tôi mang theo chẳng giúp được gì mấy. Rốt cuộc, tôi phải mua hết bao thuốc này đến bao thuốc khác, mỗi lần mua thuốc là một lần hỏi đường.
Nhà nàng là một ngôi nhà gỗ có hàng rào gỗ màu nâu bao quanh. Trước khoảng sân nhỏ là một chum gốm đựng đầy nước mưa tù đọng. Nền đất tối tăm ẩm thấp.
Nàng bỏ nhà đi năm mười sáu tuổi. Đó có lẽ là lý do tại sao đám tang nàng lại thê lương đến thế. Chỉ có mấy người trong gia đình có mặt, đa số là người lớn tuổi. Anh trai nàng, mà cũng có khi là anh rể, trạc ba mươi tuổi, đứng ra làm chủ tang.
Cha nàng, một người đàn ông tầm thước trạc năm tư năm lăm, đeo băng tang đen trên cánh tay. Ông đứng cạnh lối vào, hầu như bất động. Ông khiến tôi nhớ đến hình ảnh một con phố sạch bong sau trận mưa tầm tã.
Lúc về, tôi lặng lẽ cúi đầu chào. Ông cũng cúi chào đáp lễ, không nói một lời.
Tôi gặp nàng vào mùa thu chín năm về trước, khi tôi hai mươi còn nàng mười bảy.
Hồi đó, gần trường đại học có một quán cà phê nhỏ nơi tôi thường tụ tập với bạn bè. Quán cà phê không có gì đặc biệt, nhưng nó phục vụ vài thứ không đổi: nhạc rock nặng và cà phê tồi.
Nàng luôn ngồi tại một chỗ cố định, khuỷu tay chống lên mặt bàn, đọc sách. Cặp kính cận của nàng – trông giống như cái niềng răng – và đôi tay gầy guộc khiến cho nàng có một vẻ gì đó thân thương. Lúc nào cốc cà phê của nàng cũng nguội ngắt, lúc nào gạt tàn của nàng cũng đầy đầu lọc.
Thứ duy nhất không luôn như cũ là mấy cuốn sách. Một lần, tôi thấy nàng đọc Mickey Spillane, lần khác là Kenzaburo Oe, lần khác nữa là Allen Ginsberg. Không quan trọng cuốn nào, miễn sách là được. Tụi sinh viên đến quán uống cà phê cho nàng mượn sách, nàng nghiến ngấu không sót một cuốn nào từ đầu đến cuối, kể cả bìa sách. Đọc ngấu đọc nghiến, như người ta gặm ngô. Ngày đó, người ta cho nhau mượn sách như một lẽ tất nhiên, và nàng chẳng bao giờ phải cố công đi lùng mua sách cả.
Đó là thời của những ban nhạc như The Door, The Stones, The Byrds, Deep Purple và The Moody Blues. Không gian tràn đầy nhựa sống, cho dù mọi thứ dường như đang ở bên bờ vực sụp đổ, chỉ đợi một cú hích mạnh nữa thôi.
Nàng và tôi thường cho nhau mượn sách, nói mãi không hết chuyện, cùng nhau uống thứ rượu whisky rẻ tiền, rồi làm tình với nhau, thứ tình dục chẳng có gì đáng nói. Bạn biết đấy, chuyện thường nhật ấy mà. Trong lúc đó, tấm màn khép vở đang rệu rã buông xuống những bước chân lê thê của thập kỷ sáu mươi.
Tôi không tài nào nhớ nổi tên nàng.
Tôi có thể lôi mẩu cáo phó ra để xem tên nàng, nhưng giờ thì việc đó có nghĩa gì đâu. Tôi đã quên tên nàng rồi.
Giả sử tôi có gặp mấy thằng bạn cũ và giữa chừng câu chuyện có nhắc đến nàng. Chắc cũng chẳng ai còn nhớ tên nàng. Ví dụ như một đứa nói, mày còn nhớ con nhỏ ngày xưa không, con nhỏ sẵn sàng lên giường với bất cứ thằng nào ấy, tao nhớ mặt nhưng quên béng tên nó rồi, mà tao ngủ với nó ối lần đấy, không biết con nhỏ đó giờ ra sao rồi, bây giờ mà bỗng nhiên gặp lại nó giữa đường thì chắc kỳ lắm.
“Con nhỏ ngày xưa sẵn sàng lên giường với bất cứ thằng nào”. Đó là tên nàng.
Nói cho đúng ra thì không phải ai nàng cũng ngủ cùng. Nàng có tiêu chuẩn riêng.
Nhưng, sự thật là, chỉ cần kiểm tra qua chút ít bằng chứng, người ta cũng thấy ngay là nàng thường sẵn sàng lên giường với hầu như bất cứ gã trai nào.
Có một lần, và chỉ một lần duy nhất, tôi hỏi nàng về mấy thứ tiêu chuẩn đó.
“Thôi được, nếu anh cứ khăng khăng muốn biết…”, nàng bắt đầu. Ba chục giây ngẫm nghĩ trôi qua. “Việc đó không giống như những người khác làm đâu. Đôi khi ý nghĩ lên giường với ai đó khiến em khó chịu. Nhưng anh biết không, có lẽ em muốn hiểu thêm về nhiều người khác nhau. Hoặc cũng có thể đó là cách giúp em nhận thức thế giới của mình”.
“Bằng cách ngủ với một ai đó ư?”
“À há”.
Giờ thì đến lượt tôi phải ngẫm nghĩ về điều nàng nói.
“Vậy cách đó có giúp em hiểu thêm điều gì không?” tôi hỏi nàng.
“Có chút chút”, nàng trả lời.
Đông qua rồi hè tới, tôi hầu như không gặp nàng nữa. Trường đại học bị phong tỏa và đóng cửa mấy lần. Về phần mình, tôi phải lo giải quyết mấy chuyện cá nhân.
Mùa thu năm sau, khi tôi quay trở lại quán cà phê cũ, đám khách quen đã hoàn toàn thay đổi. Nàng là khuôn mặt duy nhất tôi còn nhận ra được. Quán vẫn bật thứ nhạc rock xưa, nhưng không khí phấn khích ngày xưa giờ đã tan biến. Chỉ còn nàng và thứ cà phê dở tệ là vẫn thế. Tôi buông mình xuống chiếc ghế đối diện nàng, và chúng tôi nói chuyện về đám bạn cũ.
Hầu hết bọn họ đã bỏ học, đứa thì tự sát, đứa thì lặn mất tăm. Cứ nói những chuyện đại loại như vậy.
“Anh làm gì suốt cả năm qua?” nàng hỏi tôi.
“Linh tinh đủ thứ”, tôi đáp.
“Có khôn lên chút nào không?”
“Chút xíu thôi”.
Đêm đó, tôi ngủ với nàng lần đầu tiên.
o O o
Tôi hầu như chẳng biết gì về thân thế nàng. Những gì tôi biết có lẽ do ai đó kể cho, hay có lẽ nàng đã kể cho tôi khi chúng tôi bên nhau trên giường. Năm đầu trung học, nàng cãi vã với bố một trận kịch liệt rồi bỏ nhà đi (bỏ cả học nữa). Chuyện này thì tôi khá chắc. Còn chuyện chính xác nàng sống ở đâu, hoặc đã sống sót bằng cách nào thì chẳng ai biết.
Nàng thường ngồi lì cả ngày ở một quán cà phê nhạc rock nào đó, nhâm nhi hết tách cà phê này đến tách cà phê khác, hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, lật giở từng trang sách, chờ ai đó đến trả tiền cà phê và thuốc lá cho mình (một khoản không nhỏ với những đứa như tụi tôi ngày ấy) rồi cuối cùng lên giường với gã ta.
Vậy đấy. Đó là tất cả những gì tôi biết về nàng.
Kể từ mùa thu năm đó tới mùa xuân năm sau, tối thứ Ba tuần nào nàng cũng ghé qua căn hộ của tôi ở ngoại ô Mitaka. Nàng ăn hết sạch bất cứ món gì tôi nấu, vứt đầy đầu lọc thuốc lá trong gạt tàn của tôi rồi làm tình với tôi trong tiếng nhạc rock của chương trình FEN trên đài phát thanh to hết cỡ. Sáng thứ Tư, sau khi tỉnh dậy, hai đứa tôi đi bộ qua rừng đến khu học xá ICU rồi ăn trưa tại nhà ăn. Buổi chiều, chúng tôi uống một cốc cà phê loãng ở phòng sinh hoạt chung cho sinh viên, và nếu trời đẹp chúng tôi sẽ nằm dài trên bãi cỏ ngắm nhìn bầu trời.
Nàng gọi đó là những buổi picnic chiều thứ Tư của riêng hai đứa
“Mỗi lần mình đến đây, em đều có cảm giác như mình đang đi picnic”
“Vậy sao? Picnic ấy à?”
“Anh thấy đấy, mặt đất thì cứ trải dài tít tắp, mọi người ai trông cũng vui vẻ cả…”
Nàng ngồi dậy, phải quẹt mấy que diêm mới châm được thuốc.
“Mặt trời lên đỉnh bầu trời, rồi bắt đầu lặn xuống. Mọi người đến rồi đi. Thời gian cứ thế lướt qua. Cứ y như một buổi picnic vậy, anh thấy không?”
Ngày đó, tôi đã hai mốt và sắp bước sang tuổi hai mươi hai. Tôi không có cơ may tốt nghiệp sớm, mà cũng chẳng có lý do gì để bỏ học. Tôi bị mắc kẹt trong một tình huống tuyệt vọng kỳ quặc. Hàng tháng trời tôi sa lầy, không tài nào tìm nổi một hướng đi mới cho mình. Vạn vật đều vận động, riêng mình tôi vẫn đứng yên. Vào mùa thu, mọi thứ đều nhuốm màu tàn úa, trong chốc lát màu sắc bỗng nhạt phai trước mắt tôi. Ánh mặt trời, mùi hương cỏ, những tiếng tí tách dù là nhỏ nhất của làn mưa, mọi thứ đều khiến tôi không sao yên ổn.
Đã bao lần tôi mơ thấy mình đáp một chuyến tàu đêm? Bao giờ cũng là giấc mơ về một chuyến tàu đêm. Chuyến tàu mà trên đó không gian ngột ngạt vì khói thuốc và mùi hôi thối của nhà vệ sinh. Tàu đông nghẹt đến nỗi chẳng còn chỗ đứng. Mấy đống nôn mửa đóng cục trên ghế ngồi. Việc duy nhất tôi có thể làm là đứng lên, xuống tàu ở ga kế tiếp. Nhưng chẳng hề có ga tàu nào. Chỉ là một cánh đồng bất tận, không một ngọn đèn le lói trong màn đêm. Không hề có lấy một người trưởng ga, đồng hồ, hay bảng giờ tàu, không gì hết – giấc mơ của tôi là như vậy đó.
Tôi vẫn còn nhớ rõ buổi chiều kỳ lạ ấy. Buổi chiều ngày 25 tháng Mười một. Cơn mưa tầm tã trước đó đã làm lá bạch quả rụng đầy đường, biến lối đi thành một lòng sông vàng khô cạn. Hai đứa tôi đi dạo, tay đút túi áo. Không gian yên tĩnh đến bất ngờ. Chỉ có tiếng lạo xạo của đám lá dưới chân chúng tôi và tiếng kêu nhức óc của đàn chum.
Nàng đột ngột hỏi tôi. “Anh đang nghĩ gì vậy?”
“Đâu có gì đâu,” tôi đáp.
Nàng đi mấy bước nữa trước khi ngồi lại bên vệ đường và hít một hơi thuốc thật dài.
“Anh lúc nào cũng gặp ác mộng à?”
“Anh thường xuyên gặp ác mộng. Thường là ác mộng về máy tự động bán đồ lặt vặt ăn tươi nuốt sống không trả lại tiền thừa cho anh.”
Nàng cười và đặt tay lên gối tôi, nhưng rồi lại rụt ngay tay lại.
“Anh không muốn nói về chuyện đó hôm nay phải không?”
“Hôm nay thì không. Hôm nay anh không muốn nói chuyện.”
Nàng búng nhẹ điếu thuốc hút dở xuống đất rồi lấy giày di qua di lại. “Anh không thể nói ra những điều anh muốn nói, có đúng vậy không?”
“Cũng chẳng biết nữa”, tôi đáp.
Hai cánh chim vụt liệng qua rồi chợt mất hút trên bầu trời không một gợn mây. Chúng tôi nhìn theo cho đến khi chúng biến mất. Nàng bắt đầu lấy một cành cây vẽ nguệch ngoạc mấy nét không ra hình thù gì trên mặt đất.
“Đôi khi ngủ với anh em cảm thấy thật cô đơn.”
“Xin lỗi đã làm em có cảm giác ấy”, tôi đáp.
“Anh không có lỗi gì cả. Em không nghĩ là anh mơ tưởng đến đứa con gái khác khi mình làm tình với nhau. Mà cho dù anh có mơ tưởng đến ai đó thì cũng có khác gì đâu? Chỉ là…” Nàng ngừng lại giữa chừng và chậm rãi vạch ba đường thẳng trên mặt đất. “Ôi, em cũng chẳng biết nữa.”
“Em biết đấy, anh không có ý xa lánh em”, tôi ngắt lời sau một lát. “Anh không biết cái gì đã vận vào người anh nữa. Anh đang cố hiểu điều gì đang xảy ra với mình. Anh không muốn thổi phồng mọi chuyện nhưng anh cũng không muốn né tránh vấn đề. Mọi chuyện cần có thời gian.”
“Cần bao nhiêu thời gian?”
“Ai biết được. Có thể một năm, có thể mười năm.”
Nàng quẳng nhánh cây đi, đứng lên, phủi phủi mấy sợi cỏ khô vướng trên áo. “Mười năm ấy à? Thôi nào anh, nghe cứ như là mãi mãi vậy?”
“Cũng có thể lắm”, tôi đáp.
o O o
Chúng tôi băng qua rừng đến khu học xá, ngồi trệu trạo nhai bánh mì xúc xích tại phòng sinh hoạt chung. Đã hai giờ chiều, hình Yukio Mishima cứ vụt qua vụt lại trên chiếc ti vi trong phòng. Núm âm thanh của ti vi bị hỏng nên chúng tôi chẳng hiểu họ đang nói cái gì, mà chúng tôi cũng chẳng quan tâm lắm. Một cậu sinh viên đứng lên tìm cách sửa núm âm thanh nhưng không được, cuối cùng cậu ta bỏ cuộc và đi mất.
“Anh muốn em”, tôi nói.
“Được thôi”, nàng đáp.
Tay thọc trong túi áo khoác, hai đứa tôi chậm rãi đi về căn hộ của tôi.
Tôi thức dậy thấy nàng đang thút thít khóc, tấm thân mảnh dẻ của nàng run rẩy dưới lớp chăn. Tôi bật máy sưởi lên và nhìn đồng hồ. Đã hai giờ sáng. Vầng trăng trắng sáng đến ngỡ ngàng giữa bầu trời.
Tôi đợi cho đến khi nàng thôi khóc rồi mới đặt ấm pha trà. Tôi pha một gói trà cho cả hai đứa. Trà nóng, không đường, không chanh. Tôi châm hai điếu thuốc rồi đưa cho nàng một điếu. Nàng rít vội rồi nhả khói, ba hơi liên tiếp, rồi húng hắng ho.
“Nói em biết đi, anh có bao giờ có ý định giết em không?” nàng hỏi.
“Em ư?”
“Ừ.”
“Tại sao em lại hỏi anh câu đó?”
Điếu thuốc vẫn còn trên môi, nàng lấy đầu ngón tay gãi nhẹ nơi mí mắt.
“Chẳng có lý do gì đặc biệt cả.”
“Không, chưa bao giờ”, tôi đáp.
“Thật không?”
“Thật. Anh muốn giết em để làm gì?”
“Ồ, có lẽ anh nói thật,” nàng đáp. “Trong một giây, em chợt nghĩ có lẽ là cũng chẳng tệ quá nếu em bị giết. Trong lúc em đang ngủ say chẳng hạn.”
“Anh e là mình không phải loại sát nhân.”
“Vậy sao?”
“Ít ra là cho đến giờ.”
Nàng cười. Rồi nàng dập thuốc, uống hết tách trà, châm thuốc.
“Em sẽ sống cho đến năm hai mươi lăm tuổi”, nàng nói, “rồi chết.”
Tháng Bảy, tám năm sau, nàng qua đời lúc hai mươi sáu tuổi.
LINK GIẢM GIÁ → | FAHASA T I K I SHOPEE |
Nội dung trên đây được sưu tầm từ nhiều nguồn trên internet. Hãy bấm nút Chia sẻ để giới thiệu sách đến bạn bè! |
Những Cuốn Sách Hay trân trọng giới thiệu!